Mở cửa phóng khoáng (*)

Nhân dịp bàn về "mở cửa", tôi tìm thấy bài dưới đây tôi trong hồ sơ. Bài này tôi dịch từ bài viết “Open minds, open doors” của Margot Cohen, đăng trên Tạp chí Kinh tế Viễn đông (Far Eastern Economic Review), số ra Ngày 1 Tháng 8 năm 2002. Một số tên người Việt vì bản gốc không có dấu nên tôi đành phải để nguyên, nhưng có lẽ các bạn cũng đoán được là Ngo Kieu Oanh chắc là Ngô Kiều Oanh, Nguyen Ngọc My thì chắc là Nguyễn Ngọc Mĩ (doanh nhân gốc Úc rất thành công ở VN).

NVT


====
Để trang bị cho thanh niên những kĩ năng cần thiết cho việc phát triển kinh tế, Việt Nam cho phép các cơ sở giáo dục nước ngoài vào đầu tư. Nhưng nhà cầm quyền vẫn nắm chặt dây cương. 


Cũng như bất cứ nhà khoa học nào thiết tha muốn nhìn thấy đất nước mình vươn lên, bà Ngo Kieu Oanh, 52 tuổi, một nhà khoa học thuộc Trung tâm Khoa học Tự nhiên và Công nghệ Quốc gia, đặt kì vọng vào tư duy sáng tạo của đồng nghiệp trẻ của mình. Bà tin rằng tiềm năng sáng tạo của giới trẻ Việt Nam hiện nay đang bị hệ thống giáo dục đại học công lập cũ kĩ kiềm chế. Hơn thế nữa, giảng viên với đồng lương còm cõi thì lại giảng dạy những bài học lỗi thời, và họ chỉ sống được nhờ vào việc dạy tư. Bà Oanh cho biết, ngay cả làm việc chung với các nhà nghiên cứu mới tốt nghiệp hoạt bát nhất: “Tôi cứ phải dạy họ lại từ đầu”.
Đương nhiên, bà Oanh ước muốn một cái gì tốt hơn cho cô con gái 18 tuổi của bà. Cô con gái bà có nguyện vọng đóng góp một phần vào việc phát triển công nghệ cao của Việt Nam, nên cô muốn trở thành một chuyên viên thiết kế các trang nhà cho hệ thống liên mạng. Thế nhưng bà Oanh sẽ không gửi con mình đi du học, vì bà lo là con nó sẽ nhớ nhà, không thì cũng “mất gốc”. Đó là lí do tại sao bà và cô ái nữ đến dự cuộc họp tiếp thị của Trường Đại học RMIT (Royal Melbourne Institute of Technology) tổ chức. RMIT là một trường đại học nước ngoài (Úc) mới thành lập chi nhánh đầu tiên tại Thành phố Hồ Chí Minh, với 100% vốn đầu tư từ ngoại quốc. RMIT có tham vọng góp phần cải cách hệ thống giáo dục cũ kĩ của Việt Nam, và qua đó góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế. Hai mẹ con bà Oanh quyết định chọn ngay một chương trình cử nhân về công nghệ thông tin và đa truyền thông, với tổng chi phí là 7900 USD. 


RMIT đang đánh một canh bạc vào thị trường đang phát triển ở Việt Nam, tập trung vào các đối tượng như bà Oanh, những người muốn trang bị cho con em mình kiến thức và kĩ năng cần thiết để tạo dựng sự nghiệp trong một xã hội hiện đại. Ông Michael Mann, Chủ tịch RMIT ở Việt Nam, và cũng là cựu đại sứ Úc ở Việt Nam, nhận thức được thị trường giáo dục ở đây lớn hơn nhiều so với con số thu nhập trung bình 430 USD của cả nước. Nghiên cứu thị trường cho thấy giáo dục là một ưu tiên hàng đầu cho giới nhà giàu ở các thành phố, những người có một mức độ thu nhập dư thừa mà họ sẵn sàng đầu tư vào giáo dục cho con em họ. Những gia đình no đủ như thế rất e ngại với con số sinh viên tốt nghiệp đại học ở trong nước không có việc làm khá cao. Tuy nhiên, với số tiền trả học phí không lồ ở các nước Tây phương và tình trạng khan hiếm học bổng làm cho các bậc phụ huynh Việt Nam trở nên tuyệt vọng. 


Nhưng không phải đây là một chuyện tiêu biểu của một quốc gia sẵn sàng tiếp nhận giáo dục từ nước ngoài, mà là một câu chuyện về một chế độ bị dồn vào chân tường vì nhu cầu cầu kinh tế, nên phải miễn cưỡng mở cửa để đại trùng tu hệ thống đại học cổ lỗ sỉ của mình. Đối với giới lãnh đạo Việt Nam, mối lo ngại cơ bản là bất cứ một nỗ lực nào nhằm khuyến khích những lề lối suy nghĩ mới hay tư duy mới đều có thể dẫn đến yêu cầu đòi hỏi thay đổi thể chế chính trị. Thành ra, một mặt Việt Nam tháo gỡ hết hệ thống kế hoạch hóa trung ương, xóa bỏ hợp tác xã, và tư hữu hóa hệ thống y tế; mặt khác, chính quyền vẫn muốn các trường đại học quốc gia nằm trong vòng cương tỏa của mình.
Chính sách trói buộc này có thể bóp nghẹt các tham vọng kinh tế của Việt Nam. Việt Nam muốn tiến lên và ước ao có một nền kinh tế tri thức, chứ không muốn đơn thuần là một nguồn cung cấp lực lượng lao động rẻ mạt cho các công ti Tây phương. Mà ước vọng này chỉ có thể thực hiện được một khi có hệ thống giáo dục hiện đại. Ông Thomas Vallely, Học viện Chính phủ mang tên John F. Kennedy, Đại học Harvard, nhận xét: “Tôi thấy [giới lãnh đạo Việt Nam] đang ý thức được là giáo dục phải đi trước rồi đầu tư từ nước ngoài mới theo sau”.
Chính vì thế, Đảng [Cộng sản Việt Nam] mới hân hoan chào đón các dự án đầu tư giáo dục từ nước ngoài. Nhưng nỗ lực cải tiến giáo dục này là một hành động mong manh, bất trắc. Các nhà đầu tư giáo dục ngoại quốc hiểu cái thông điệp ngầm của các nhà lãnh đạo chính trị Việt Nam rằng: Cung cấp cho chúng tôi những kĩ năng thực tiễn về khoa học tin học, về kinh tế, thương mại, và ngoại ngữ mà chúng tôi cần để cạnh tranh trong nền kinh tế toàn cầu hóa và thu hút đầu tư, nhưng nhớ tránh xa những bộ môn lịch sử, văn học, nhân chủng học, hay bất cứ bộ môn khoa học xã hội nào mà có thể dấy lên quá nhiều nghi ngờ trong những bộ óc non trẻ dễ bị sách động.
Một số quan chức trong chính quyền đánh giá cao các nỗ lực của những trường đại học nước ngoài như RMIT với một phương pháp giảng dạy thực tiễn, bằng ví dụ thực tế. Qua việc tập trung vào các kĩ năng giải quyết vấn đề thực tế, thảo luận trong lớp thay vì những bài giảng giáo khoa khô khan, khuyến khích lối học trực tuyến (online learning), và trau dồi ngoại ngữ, các trường như RMIT đang cung cấp một mô hình sống động. Ông Truong Song Duc, Giám đốc Sở Giáo dục và Đào tạo Thành phố Hồ Chính Minh, nói: “Các trường đại học Việt Nam sẽ phải tự mình cải tiến để cạnh tranh với các trường nước ngoài.”
Về phần các trường đại học nước ngoài, họ cũng hài lòng tập trung vào các bộ môn thương mại và công nghệ thông tin, bởi thị trường đang nằm ở đó. Hàng năm, có đến 1,4 triệu học sinh trung học phải tranh nhau để vào được 168.000 chỗ trong các trường đại học địa phương, nên khủng hoảng thiếu trong nhu cầu đào tạo là điều hiển nhiên. Một số trường khác đang có dự định nhảy vào thị trường Việt Nam, trong số này có Trường Đại học Công nghệ Swinburne của Úc. Trường này đang đầu tư vào một chi nhánh thuộc tỉnh phía nam Bà Rịa – Vũng Tàu. Một tổ hợp gồm các trường đại học công lập ở Pháp đang hợp tác với một nhóm nhà đầu tư người Việt hải ngoại để mở một trường đại học tư ở Thành phố Hồ Chí Minh vào năm 2004.
Các quan chức Việt Nam cũng cho phép các chương trình hợp tác giáo dục, theo cách thức trước hết sinh viên học các khoá lí thuyết tại các trường đại học địa phương, và sau đó sẽ chuyển sang hoàn tất và thi tốt nghiệp tại các trường ở ngoại quốc. Vấn đề nổi cộm trong việc du học nước ngoài là các bậc phụ huynh lo ngại cái cảnh đem con bỏ chợ. Hiện nay, có khoảng 15.000 sinh viên Việt Nam du học, và những lời đồn đại về việc sao nhãng học tập đã bắt đầu lan về bên nhà Việt Nam. (Kể từ tháng 7, 2001 đến tháng 3, 2002, Úc đã huỷ bỏ 151 visa học sinh Việt Nam, vì những học sinh này không đến lớp học). Do đó, qua việc cung cấp cho học sinh một môi trường quen thuộc trong hai năm đầu đại học ở trong nước, các trường đại học cho rằng họ đã trang bị cho sinh viên một tư thế sẵn sàng đối mặt với các thử thách về tâm lí và tri thức ở nước ngoài.
Ông Nguyen Ngọc My, một thương gia Úc gốc Việt có doanh nghiệp ở Việt Nam, ông đang hỗ trợ việc thành lập một chi nhánh cho Trường Đại học Swinburne. Ông My thuật lại, “Tôi biết có khoảng chục thanh niên ở SydneyMelbourne, cha mẹ chúng nhờ tôi lưu tâm giúp. Nhưng làm sao mà tôi có thể theo dõi chúng được? Tôi cố gắng gọi điện thoại cho chúng và khuyên răn, ‘Cố gắng mà học hành đi nhé, đừng có mà đi nhảy đầm đấy,’ còn chúng nó cứ liếng thoắng vâng vâng dạ dạ. Quả là khó.” Ít ra, đó cũng là một lời lẽ có tính thuyết phục.
Đối với một số quan chức Việt Nam có con em học ở nước ngoài, vấn đề trở nên khó hơn, vì phải tránh những dị nghị của quần chúng là bằng cách nào mà các quan chức này lại có khả năng tài chính cho con cái đi học ở nước ngoài với một đồng lương nhà nước ba cọc ba đồng như hiện nay. Mới đây, giới truyền thông địa phương tố cáo một sĩ quan công an nhận tiền hối lộ từ một tay trùm băng đảng xã hội đen ở miền Nam để gửi con du học ở Úc. Chính phủ Canada từ chối 40% đơn xin học của học sinh Việt Nam, phần lớn vì những gian lần về các chứng từ tài chính. Một viên chức cố vấn về giáo dục Canada nói, “Những phụ huynh này có lẽ họ có tiền, nhưng họ không chứng minh được, hay không muốn chứng minh nguồn thu nhập của mình.”
Mặc dù Ngân hàng Thế giới và Ngân hàng Phát triển Á châu cho RMIT vay 15 triệu USD trong tổng số 36 triệu USD cho công trình đầu tư, một số chuyên gia giáo dục cho rằng một việc cấp chưngh hơn là giúp đỡ Việt Nam để họ tự cải cách hệ thống giáo dục đại học của chính họ. Mục tiêu tối hậu là nâng đỡ và nuôi dưỡng một thế hệ thanh niên, chứ không chỉ tập trung vào một thiểu số no đủ. Ông Vallely, Đại học Harvard nói, “Nếu muốn trở thành một quốc gia hiện đại, thì Việt Nam cần phải có một hệ thống đại học hiện đại.”
Thế thì chiến lược của ông Valley là gì? Nên thúc đẩy Việt Nam theo con đường mà Trung Quốc đã đi. Giới lãnh đạo Trung Quốc từng chi ra hàng trăm triệu USD để nâng cấp hai trường đại học Bắc Kinh và Thanh Hoa (Tsinghua), và rồi quyết liệt đẩy mạnh hợp tác quốc tế. Việt Nam, dù bực tức nhưng vẫn ấn tượng về quyền lực kinh tế của Trung Quốc, nên hẳn là sẵn sàng chịu lắng nghe. Mới đây, Phó Thủ tướng Nguyễn Mạnh Cầm và các quan chức cao cấp đã gặp gỡ các nhà giáo dục hàng đầu từ các trường đại học Harvard, MIT, và Princeton, để nhờ họ cố vấn thiết lập những “trung tâm tiên tiến” về khoa học và công nghệ tại một hay hai trường đại học hàng đầu của Việt Nam bằng vốn tài trợ của Ngân hàng Thế giới. Một số sự án tương tự cũng đã được thực hiện ở các nước như Chi Lê, Mễ Tây Cơ và Ba Tây, và hiệu quả đã thấy rõ: các công trình nghiên cứu khoa học gia tăng, và tình trạng chảy máu chất xám đã giảm đi.
Trong trường hợp Việt Nam, vấn đề không chỉ ở tình trạng chảy máu chất xám, mà còn ở không tận dụng được nguồn chất xám. Theo giới khoa bảng địa phương, những sáng kiến mới thường bị nghi ngờ và ganh tị. Đề bạt chức vụ thường dành cho những người yên phận thủ thường. Một số nhà khoa bảng Việt Nam cho rằng Đảng Cộng sản Việt Nam đang siết thêm dây cương, bằng cách thiết lập các chi bộ, cơ sở đảng trong lĩnh vực khoa học và giáo dục, và đảng viên dần dần nắm vai trò quản lí các hoạt động khoa học như thay đổi chương trình giảng dạy và xuất bản sách giáo khoa. Tháng Sáu năm nay, Thủ tướng chính phủ vừa ra chỉ thị đẩy mạnh việc giảng dạy triết học Marx - Lenin, cùng Tư tưởng Hồ Chí Minh trong tất cả các trường đại học, kể cả các trường ngoại quốc. (RMIT không có những môn này trong khung chương trình). 


Tuy vậy, một điều ngạc nhiên là Trường Đại học Quốc gia Hà Nội, một trường danh tiếng nhất trong nước, lại khai trương một chương trình thí điểm dạy môn khoa học chính trị, kể cả nghiên cứu về chính trị Mĩ. Và một số trí thức người Việt lẫn người ngoại quốc vẫn lạc quan cho rằng trong vài thập niên tới những nhà khoa bảng trẻ về nước sau khi du học sẽ làm thay đổi hệ thống giáo dục đại học Việt Nam. Nhà nhân chủng học người Mĩ, Charles Keyes, coi trường hợp cải cách giáo dục đại học ở Thái Lan như là một bằng chứng cho thấy Việt Nam cũng sẽ vượt qua giai đoạn khó khăn hiện nay. Ông nói, “Điều tất yếu sẽ xảy ra là xã hội sẽ có một quần chúng nghiêm túc gồm những con người mới với nề nếp suy nghĩ mới”.
Nói cho cùng, nếu Việt Nam cứ theo đuổi chính sách kềm kẹp các bộ môn khoa học xã hội và chỉ khuyến khích các bộ môn thương mại công nghệ thông tin thì có thể sẽ phản tác dụng. Một chính sách lưỡng phân như thế khó có thể phù hợp với một nền kinh tế toàn cầu hóa, là một nền kinh tế mà các kĩ năng phân tích đều cần thiết cho mọi lĩnh vực. Trừ phi hiện đại hóa hệ thống giáo dục và tiến ra khỏi những lằn ranh cứng nhắc, nếu không Việt Nam sẽ phải chịu một số phận bi đát là không nuôi dưỡng được tiềm năng sáng tạo cần thiết để cạnh tranh trên trường quốc tế. Và, những ước mơ của phụ huynh như bà Oanh sẽ bị nghiền nát.
Margot Cohen
(NVT dịch)
Share on Google Plus

About Dat le

    Blogger Comment
    Facebook Comment

0 nhận xét:

Đăng nhận xét