Cái âm điệu tủi thân, bi đát

Hôm nay xem qua một DVD mới nhất của hãng Thúy Nga làm tôi nhớ đến một bài viết khá lâu của Nguyễn Hữu Liêm (xem dưới đây). Ở ngoài này, không có những show ca nhạc hàng tuần hay hàng ngày như ở Sài Gòn, đơn giản vì ai cũng đi làm và chỉ có ngày cuối tuần mới rảnh mà thôi.

 Thành ra, nhu cầu văn nghệ này được đáp ứng bởi những DVD ca nhạc của các công ti như Thúy Nga, Asia, Rainbow (và hàng loạt nhóm nhỏ khác) sản xuất. Thực chất của những show nhạc này là loại tạp lục caberet, bắt chước theo Pháp vào thập niên 1960s. Nói chung, cái gì mình cũng đi sau người ta và thiếu tính sáng tạo.


Thú thật, tôi không thích các show nhạc này, vì nó thiếu tính nghệ thuật. Nhạc thì cứ xào nấu lại những ca khúc tâm lí chiến thời trước 1975. Còn MC thì thỉnh thoảng lợi dụng chen vào vài câu lải nhải bình phẩm mang tính chống cộng. Ca sĩ thì hát nhép, chứ có hát thiệt gì đâu. Có lần tôi nghe một cô ca sĩ sến NQ nọ mà muốn ói vì sự đóng kịch của cô ấy quá vụn về. Họ nhảy nhót thì nhiều chứ hát thật chẳng bao lăm. Nhiều ca sĩ nữ (nếu gọi họ là "ca sĩ") hình như khoe mông, ngực, rốn, v.v... nhiều hơn và cũng để làm lạc hướng tiếng hát karaoke của mình. Mà, thực sự thì họ có đẹp đẻ gì đâu, chỉ là phấn son giả tạo mà thôi. Có người còn tìm đâu những bộ đồ lính Mĩ và mặc vào làm như là lính thứ thiệt, trông thật khôi hài và phường tuồng. Nói chung là tôi không hạp những show nhạc kiểu này. Ấy thế mà có ca sĩ trong nước ước mơ một ngày được lên những sân khấu như thế! Tại sao họ phải hạ mình như thế nhỉ?

Trong bài viết sau đây Nguyễn Hữu Liêm nhận xét các ca sĩ “danh tiếng” như Khánh Ly như sau:

"Cũng một bài hát đó, của Trịnh Công Sơn chẳng hạn, nhưng khi Khánh Ly hát lên thì nó trở thành mê muội, lạc lõng. Cái giọng lè nhè của Khánh Ly không được cân bằng với một âm sức cao và mạnh để cứu lấy âm điệu cho toàn thể âm cảnh đã làm cho bản nhạc trở nên một sự đày đọa cho người nghe. Không ai phá nát nhạc Trịnh Công Sơn và làm mất âm hưởng của chúng hơn là Khánh Ly."

Đúng, tôi nghĩ chị này ca nhạc Trịnh Công Sơn dở nhất. Chính vì giọng ca này mà tôi không bao giờ nghe quá 5 bài nhạc của TCS một lúc! Giọng nhè nhè và buồn chán làm sao! Chẳng hiểu sao có người thích giọng hát này.

Ca sĩ đã thế, còn MC thì sao? Có lần tôi nghe một cô MC trẻ từ Úc (vượt biên từ Hải Phòng) trao đổi với một ông MC nọ, sau khi được giảng cho vài bài tuyên truyền, cô ta khen nức nở anh chàng MC và cám ơn anh ta vì cô đã học được "nhiều bài học lịch sử". Trời ạ! Cô này đã tốt nghiệp đại học ngoài này, tức là đã quen với văn hóa phản biện, ấy thế mà cô ấy dễ dàng nghe tuyên truyền từ cái anh chàng MC kia. Phải chi tuyên truyền tinh vi để cô ta không hiểu thì chẳng nói làm gì, đằng này tuyên truyền kiểu rẻ tiền và thấp mà cô ây cũng khen nức nở. Những điều này nói lên trình độ của những người dẫn chương trình.

Nhưng điều làm tôi ngạc nhiên là những show nhạc như thế thu hút khá nhiều khán giả, có người thậm chí nghiền. Tôi đọc báo thấy hình như ở trong nước người ta cũng tìm kiếm mấy DVD này để nghe. Chẳng hiểu họ tìm được cái gì hay trong đó. Những Các bạn trẻ ham thì tôi hiểu được vì có thể họ tìm những thần tượng của mình dán vào tường để đêm đêm về chiêm ngưỡng dung nhan cho đỡ buồn. Còn người lớn thì mê cái nỗi gì trong các show nhạc đó? Có lẽ họ tìm lại những bài hát tâm lí chiến, những ca khúc boléro thời xưa để nhớ đến kỉ niệm kiểu "Ước gì nhà mình chung vách / hai đứa mình thức trắng đêm nay". Nếu như vậy thì tôi nghĩ họ tìm đến những show nhạc này không phải vì nghệ thuật, mà vì lí do đơn giản hơn: tìm về kỉ niệm.

NVT

===

Nguyễn Hữu Liêm
Cái âm điệu tủi thân, bi đát

Nếu có một sắc điệu văn hóa nào rất đặc thù cho người Việt hải ngoại, đặc biệt nhất là ở Mỹ, thì đó là cái thực chất âm nhạc. Cái thứ tân nhạc được đem theo từ miền Nam trước 1975 qua đây và vẫn cứ tiếp tục là một dòng âm nhạc bi đát, yếu đuối, trống rỗng và băng hoại.

Cứ nghe thử các giọng ca hàng đầu hiện nay của phái nữ: Khánh Hà, Khánh Ly, Ý Lan. Ðây là những giọng ca được ăn khách nhất hiện nay ở Mỹ. Nhất là ở vùng bắc California, hình như là tuần nào cũng có đại nhạc hội, nhạc thính phòng. Mà "đi vô, đi ra cũng thằng cha khi nãy" - cũng chừng đó ca sĩ, chừng đó emcees, chừng đó bản nhạc, và nhất là vẫn chừng đó cái âm điệu ai oán, bi đát rẻ tiền của các cô cậu ca nhạc sĩ Việt Nam hải ngoại.

Cũng một bài ca đó, mà khi Khánh Hà hát lên thì mức độ não nùng bi đát tăng lên gấp bội. Có những đoạn không đáng gì bi thảm, nhưng Khánh Hà cứ nức nở hóa một cách quá trớn, thành ra như tiếng khóc, trộn lẫn với một chất điệu yếu đuối, não nề. Cái nồng độ nức nở này như là một thứ trade-mark, một gia vị đặc thù, một thứ nước dừa ngọt ngầy ngậy mà bất cứ món ăn nào cô ca sĩ sưng môi này cũng cứ quậy lên không cần phân biệt.

Cũng một bản nhạc đó, mà khi Ý Lan hát lên thì thành ra tức tưởi, bi ai - và đặc biệt là tính đĩ. Hễ đến đoạn nào thay đổi âm khúc thì Ý Lan lắc lư cái đầu, nức nở hóa tiếng ngâm, khàn vô cổ họng cái tiếng lớ để gia tăng cái bi kịch của tính lẳng lơ nhưng đầy tang thương của tiếng hát. Không như tiếng hát của Thái Thanh, mẹ của Ý Lan, vốn trong sắc và mạnh, tiếng hát của Ý Lan là của văn hóa Bolsa, đầy nhộn nhịp của bầy kiến nhiều thương tích, nhưng hoàn toàn trống rỗng và vô vị.

Cũng một bài hát đó, của Trịnh Công Sơn chẳng hạn, nhưng khi Khánh Ly hát lên thì nó trở thành mê muội, lạc lõng. Cái giọng lè nhè của Khánh Ly không được cân bằng với một âm sức cao và mạnh để cứu lấy âm điệu cho toàn thể âm cảnh đã làm cho bản nhạc trở nên một sự đày đọa cho người nghe. Không ai phá nát nhạc Trịnh Công Sơn và làm mất âm hưởng của chúng hơn là Khánh Ly.

Nhưng chưngh tính thiên hạ của người Việt ở Mỹ rất được thoả mãn với các giọng ca này. Vì sao? Vì tâm chất họ được thể hiện qua các giọng ca đó. Quần chúng nào thì âm nhạc đó; tâm thức nào thì ca sĩ đó. Khánh Hà, Ý Lan và Khánh Ly là những biểu tuợng âm thanh của một tập thể dân chúng muốn được ru mình bằng cái não nề, lẳng lơ, yếu đuối. Ðây là những bài văn tế cho những tâm hồn mất quê hương và mất nước.

Từ khi nhà Nguyễn thẩm nhập cái âm nhạc mất nước của dân tộc Chàm bằng những lời ca Huế thì triều đại này chỉ còn đi xuống dốc. Nghe nhạc Huế thì chỉ còn có muốn nhảy xuống sông Hương mà tự vận - cứ nghe thử nhạc của Dương Thiệu Tước thì biết. Một triều đại quyền lực, một trung tâm chính trị quốc gia lẫy lừng khi thống nhất đất nước mà từ khi bị nhiễm lấy cái vi khuẫn của loại nhạc "mất hồn" của dân Chàm thì chỉ cần một thời gian ngắn là cả hệ thống chính trị Việt Nam bị suy đồi từ tri thức cho đến ý chí, từ tình cảm cho đến nghệ thuật. Chuyện mất nước là kết quả đương nhiên.

Tôi về Việt Nam và có dịp nghe các ca sĩ trong nước sau 1975 hát - như Mỹ Linh, Trần Thu Hà, như Hồng Ngọc, như Thu Phương. Cái khác hẳn là tính mạnh và sắc sảo của thế hệ âm nhạc mới này. Và vắng bóng hoàn toàn cái bi đát, não nùng. Có phải chăng các ca sĩ này biểu lộ được tâm thức và ý chí của những kẻ chiến thắng - từ vô thức tập thể? Dĩ nhiên, đây không phải là một chính sách văn hóa của chính quyền. Cái mạnh và tự tin của các lời ca mới đại diện cho cái collective unconsciousness của phe thắng cuộc. Hãy lắng nghe Hồng Ngọc hát nhạc Trịnh Công Sơn! Cũng một bài, có câu, "Ngựa hồng đã mỏi vó, chết trên đồi quê hương..." mà khi Khánh Ly hát thì người nghe chỉ thấy muốn ngồi xuống sàn nhà và bưng hai lỗ tai. Nhưng khi Hồng Ngọc cất lên những lời ca đó, nhạc họ Trịnh trở thành cơn giông cuồng nộ để làm cho người nghe muốn đứng dậy để làm cách mạng.

Cách đây khoảng hai ngàn năm trăm năm, hai nhà hiền triết Ðông Tây, Khổng Tử và Socrates, đã đồng lúc khuyến cáo đến cái tầm quan trọng của âm nhạc. Âm nhạc là sinh khí của tinh thần. Hễ nhạc xuống là nước nhà xuống; hễ nhạc uỷ mị là con người tha hóa. Cái thối nát của con người khởi đi từ sự thối nát của âm nhạc. Âm thanh là logos của tâm thức. Chính vũ trụ này chẳng qua là một trường âm thanh của tạo hóa mà thôi. Mỗi cung điệu đại diện cho một cõi hiện hữu. Âm nhạc chính là nấc thang của tâm hồn.

Nietzsche trong cuốn The Will to Power có nói tới cái tâm thức amor fati - cái bệnh tủi thân, cái lòng yêu số phận bi đát của mình. Cái bệnh amor fati của dân Việt khởi đi từ Truyện Kiều và kéo dài cho đến ngày nay. Từ Kiều qua nhạc Chàm, qua nhạc Huế, qua vọng cổ, qua nhạc bolero đã làm cho miến Nam ngồi xuống vỉa hè, che mặt và lau nuớc mắt. Cái quần chúng lau nước mắt này bị lưu đày qua đất mới và tiếp tục uống nước dừa tang thương bằng âm nhạc.

Cho đến lúc cái hệ luỵ bi đát này được vươn thoát, khối người Việt hải ngoại vẫn sẽ còn là một khối dân tộc không có quyền lực - và sẽ không làm nên lịch sử.

California 7/2003

Nguồn: http://www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=1271&rb=0206

Share on Google Plus

About Dat le

    Blogger Comment
    Facebook Comment

0 nhận xét:

Đăng nhận xét