Hôm nay thấy trên mạng có hai bài này viết về huyền thoại TTKh. Chắc những người cỡ tuổi tôi và những người trẻ hơn nhưng yêu thơ đều biết những bài thơ tình ủy mị kí tên “T T Kh”. Thậm chí, Hoài Thanh và Hoài Chân còn đưa vào cuốn Thi nhân Việt Nam!
TTKh là ai? Đã từ lâu tôi đọc đâu đó và nghe nói người kí tên TTKh là người yêu của thi sĩ Thâm Tâm (tên thật là Nguyễn Tuấn Trình). Nhưng chuyện này xem ra là một huyền thoại. Theo như bài viết dưới đây (tôi chỉ trích những chỗ quan trọng) thì TTKh tên thật là Trần Thị Khánh. Cô này yêu chàng thi sĩ Thâm Tâm, hơn mình 2 tuổi. Mà, vào cái thời xưa đó, tình ái chỉ thuộc loại “ú ớ” thôi, chứ tay chân còn chưa nắm nữa mà, ú ớ làm thơ đấy mà (và phải viết bằng mực tím mới … mặn nồng). Vì loại tình ái ú ớ này, nên một hôm cô Khánh đi lấy chồng là thương gia Hà Nội. Nàng Khánh sống hạnh phúc bên chồng, chứ chẳng có buồn rầu gì cả. Nàng Khánh không biết làm thơ.
Nghe tin người yêu lấy chồng, Thâm Tâm buồn quá mới, làm thơ để ghi lại mối tình ú ớ đó. Thâm Tâm tưởng tượng mình là nàng Khánh sống bên chồng không hạnh phúc, mà nhớ đển người yêu cũ. Anh ta kí tên là TTKh. Thế là huyền thoại có nàng thi sĩ tên TTKh, chứ trong thực tế thì chẳng có nàng thi sĩ TTKh nào cả, mà chỉ là chàng thi sĩ mà thôi. Thôi, cứ xem như huyền thoại đã được giải mã.
NVT
===
http://www.rfi.fr/actuvi/articles/112/article_3178.asp
Huyền thoại TTKH và Hai sắc hoa ty gôn
Thụy Khuê
Sự xác định của Nguyễn Vỹ
Nguyễn Vỹ là một trong những nhà thơ tiên phong trong phong trào Thơ Mới. Năm 1970, khi Nguyễn Vỹ xuất bản cuốn Văn Thi Sĩ Tiền Chiến tại Sàigòn, thì ông đã đưa sự thực về Thâm Tâm và TTKh ra ánh sáng.
Như chúng ta đã biết, sau Phan Khôi, Nguyễn Vỹ cùng với Lưu Trọng Lư, Nguyễn Thị Manh Manh, Thế Lữ là những người đã phát triển phong trào Thơ Mới. Nguyễn Vỹ và Mộng Sơn lập trường phái Bạch Nga, chủ trương cách tân thơ, chú trọng đến khía cạnh âm nhạc và hình thức xếp chữ trong thơ. Trường phái Bạch Nga bị Thế Lữ và Hoài Thanh đả kích kịch liệt, thơ Nguyễn Vỹ không được tiếp nhận đúng mức. Đánh giá thơ Nguyễn Vỹ là một vấn đề khác mà chúng tôi không đề cập đến trong bài này. Nguyễn Vỹ là bạn thân của Lan Khai, Lưu Trọng Lư, Trương Tửu và trong cuốn Văn Thi Sĩ Tiền Chiến ông đã vẽ lại chân dung 35 nhà văn, nhà thơ sinh hoạt trong không khí văn học từ đầu thế kỷ đến 1945. Một tư liệu quý cho những người nghiên cứu văn học.
Sau hơn 30 năm im lặng, 1970, một năm trước khi mất, Nguyễn Vỹ đã công bố những lời tâm sự của Thâm Tâm 22 năm sau khi Thâm Tâm qua đời trong bài viết Thâm Tâm và sự thât về TTKh. mà chúng tôi xin lược trình sau đây :
Năm 1936, 37 có xuất hiện ở phố Chợ Hôm, ngoại ô Hà Nội, một nhóm văn sĩ trẻ với bút hiệu là Trần Huyền Trân, Thâm Tâm và một vài người nữa. Ít ai để ý đến họ. Huyền Trân và Thâm Tâm đều mới 18, 19 tuổi. Họ có một tờ tuần báo nhỏ, tên là Bắc Hà ở phố Chợ Hôm. Chủ động trên tờ báo là Trần Huyền Trân. Báo Bắc Hà bán không chạy lắm, tuy có vài mục hài hước, vui, nhờ mấy bức vẽ của Tuấn Trình. Thâm Tâm là bút hiệu của Tuấn Trình. Tuấn Trình vẽ nhiều hơn viết, thỉnh thoảng đăng một bài thơ, vài mẩu truyện ngắn. Đôi khi thấy xuất hiện trên mặt báo vài ba bài thơ có tính cách ca dao, ái tình của Nguyễn Bính học sinh lớp nhất trường tiểu học Hà Đông. Nguyễn Bính thi rớt, nghỉ học luôn.
Tôi - tức là Nguyễn Vỹ - tuy không chơi thân, nhưng quen biết Trần Huyền Trân khá nhiều vì anh ta ở trọ một căn nhà trong ngõ Khâm Thiên, phía sau chợ. Tôi ở một gác trọ của đường Khâm Thiên, gần Ô Chợ Dừa. Đôi khi Trần Huyền Trân nhờ tôi viết bài cho tuần báo Bắc Hà "cho vui" vì không có tiền nhuận bút. Để tỏ tình thông của văn nghệ, tôi có viết một truyện ngắn khôi hài, và chỉ có một lần.
Trong một số báo đặc biệt Mùa Hè, Tuấn Trình có vẽ một cặp Bạch Nga bơi trên Hồ Hoàn Kiếm và ghi ở dưới "Nguyễn Vỹ và Mộng Sơn".
Tôi quen biết Tuấn Trình là do Trần Huyền Trân giới thiệu. Nhà anh ở Chợ Hôm, cách chợ độ ba, bốn trăm thước. Anh đẹp trai, y phục lúc nào cũng bảnh bao, người có phong độ hào hoa, lịch thiệp. Tôi thấy ở Sàigòn có anh Hoàng Trúc Ly, nhà văn, na ná giống Tuấn Trình về dáng điệu cũng như tính tình, tư cách. Nhiều khi gặp Hoàng Trúc Ly trên đường Bonnard Sàigòn, tôi quên lững, cứ tưởng như gặp Tuấn Trình trên phố Chợ Hôm Hà Nội.
Một buổi chiều gần tối, Tuấn Trình đi lang thang gần chợ Khâm Thiên. Tôi từ Hà Nội về nhà, tôi tưởng anh đến Trần Huyền Trân, nhưng anh bảo: Thằng Huyền Trân nó đi đâu, không có nhà. Tôi rủ anh về gác trọ của tôi ở cuối phố. Hôm ấy, tôi có vài chục bạc trong túi, có thể làm một tiệc bánh giò chả lụa với Tuấn Trình. Tôi bảo anh ở lại ngủ với tôi cho vui. Đêm ấy cao hứng, Tuấn Trình ngà ngà say rượu Văn Điển, kể chuyện tình của anh với cô Khánh cho tôi nghe.
Câu chuyện tình
Trần Thị Khánh là một cô học trò lớp nhất trường tiểu học Sinh Từ. Thi hỏng, cô ở nhà giúp mẹ làm việc nội trợ. Nhà cô cũng ở đường Sinh Từ, ngay cạnh Thanh Giám, nơi đền thờ Khổng Tử.
Thanh Giám là một thắng cảnh Hà Nội, đã liệt vào cổ tích Việt Nam, xây cất từ đời nhà Lý, tu bổ cho tới đời nhà Lê, hình chữ nhật, xung quanh xây tường đá ong, cao độ hai thước Đền thì ở trong cùng, trước đền có Hồ Tròn, hai bên hồ có những tấm bia ghi tên các tiến sĩ đời nhà Lê. Vào Thanh Giám có cổng tam quan lớn, trước cổng có tấm bia đề hai chữ Hán "Hạ mã" và hai trụ cao. Trong vườn trồng rất nhiều cây cổ thụ và các cây kiểng, nơi đây rất yên tĩnh và mát mẻ, cũng là nơi các cặp trai gái hẹn hò tâm sự. Trước kia có một bầy quạ chiều tối bay về đây ngủ, cho nên người Pháp cũng gọi là Pagode des corbeaux. Chùa Quạ, ngoài danh từ lịch sử Temple de Confucius, Đền Khổng Tử.
Cô nữ sinh Trần Thị Khánh là một thiếu nữ đẹp. Tuấn Trình có một người cô, nhà ở phố Chợ Cửa Nam, gần Sinh Từ. Anh thường đến đây thăm cô và trông thấy cô Khánh đi chợ mỗi buổi sáng. Lúc ấy vào khoảng tháng 2 năm 1936, họa sĩ Tuấn Trình -tên gọi hồi đó- mới 19 tuổi, và cô Khánh 17 tuổi. Tuấn Trình mới bắt đầu vẽ và viết chút ít trong tờ tuần báo Bắc Hà của Trần Huyền Trân vừa xuất hiện.
Sau một vài tháng theo dõi, Tuấn Trình làm quen được với cô Khánh và gởi báo Bắc Hà tặng cô. Cô gái 17 tuổi, cảm mến người nghệ sĩ tài hoa, tình ái chớm nở như cành hoa antigone trắng cũng vừa chớm nở trong tháng đầu hè trước sân nhà cô.
Antigone là loại hoa của người Pháp đem qua hồi đầu thế kỷ, không thơm nhưng đẹp. Nó là loại hoa dây, lá giống như lá nho, cho nên ở miền Nam nhiều người gọi là hoa nho. Có hai loại : hoa trắng và hoa hồng. Hoa nở vào đầu mùa hè thành những chùm rất dễ thương, nụ hoa giống hình trái tim nho nhỏ. Ở Hà Nội người ta trồng rất nhiều và bán cũng rất nhiều ở chợ Đồng Xuân, cũng như ở Chợ Hoa, bờ hồ Hoàn Kiếm. Cắm nó vào lọ để phòng khách, nó buông ra một vẻ lãng mạn, khả ái lắm. Người Bắc gọi tắt là hoa ty gôn. Ở phố Sinh Từ, antigone mọc rất nhiều, như trước sân nhà ông Nguyễn Văn Vĩnh và Nguyễn Nhược Pháp. Nhà trọ của Lưu Trọng Lư và Lê Tràng Kiều ở phố Hàm Long có cả một giàn hoa trắng và hồng. Nhưng mùa đông lá rụng, hoa tàn thì không cảnh nào tiêu sơ quạnh quẽ bằng.
tình ái của Tuấn Trình và Trần Thị Khánh chớm nở ngay lúc những chùm hoa antigone vừa hé nụ, và chết giữa mùa đông năm đó, trong lúc giàn hoa ty gôn úa tàn, rụng ngập đầy sân. Thời kỳ mơ mộng ngắn ngủi trong mấy tháng hè, sang hết mùa thu, không đem lại chút thỏa mãn nào cho tâm hồn khao khát của Tuấn Trình.
Chính lúc này Tuấn Trình lấy bút hiệu là Thâm Tâm. Một vài bài thơ tình thức đêm làm tặng cô Khánh. Những bài thơ đầu tiên đăng trên tuần báo Bắc Hà đều ký là Thâm Tâm, nhưng các tranh vẽ trong báo vẫn ký Tuấn Trình. Nhưng cô gái 17 tuổi, dè dặt, theo lễ giáo của gia đình, chưa thật bao giờ đáp ứng đúng với tình ái tha thiết của Tuấn Trình Thâm Tâm.
Trong lúc những cặp tình nhân trẻ trung dắt nhau đi du ngoạn khắp nơi thơ mộng ở Hà Nội và ngoại ô, thì Trần Thị Khánh cứ phải từ chối những lời mời của Thâm Tâm. Cô thường nói: "Thầy mẹ em nghiêm lắm, gia đình em nghiêm lắm." Lần nào cô Khánh cũng lặp lại chữ nghiêm gia giáo ấy để trả lời kỳ vọng khát khao của người yêu.
Chỉ được hai lần Khánh đến nơi hẹn, nhưng không được lâu. Lần thứ nhất, một đêm trăng, Khánh lẻn băng qua đường vào vườn Thanh Giám. Tuấn Trình đã chờ người yêu nơi đây, dưới bóng cổ thụ. Nhưng cả hai cũng không nói được gì, Khánh run sợ. Tuấn Trình bối rối, tất cả những lời lẽ bay bướm đã sắp sẵn, bây giờ quên hết. Cuối cùng lại trách móc nhau vì những chữ "Thầy mẹ em nghiêm lắm" và rồi Khánh cũng vội vã chạy về nhà.
Lần thứ hai, vườn Thanh Giám đêm ấy cũng ngập ánh trăng thu. Nhiều người nói Thanh là Thanh Hóa, là hoàn toàn sai sự thật. Nhưng thái độ của Khánh lạ lùng, khó hiểu. Hình như Khánh muốn nói với Tuấn Trình một điều gì, nhưng ngại ngùng không nói. Rồi nàng buồn bã hỏi: "Anh định bao giờ đến xin thầy mẹ cho chúng mình ?" Chàng họa sĩ bối rối trước câu hỏi bất ngờ. Chàng lơ đễnh bảo: "Anh chưa nghĩ đến việc ấy, vì..." Câu chuyện bị bỏ dở nơi đây cho đến khi từ giã.
Hai người vẫn thư từ với nhau cho đến một hôm... Tuấn Trình nhận được bức thư của người yêu, không, của người đã hết yêu, báo tin nàng sắp lấy chồng. Thư viết bằng mực tím, trên bốn trang giấy học trò, xé trong một quyển vở Nam Phương Hoàng hậu (loại vở học trò rất thông dụng lúc bấy giờ).
Đại khái trong thư Khánh nhắc lại tình ái "thơ mộng" của cô với "người nghệ sĩ tài hoa son trẻ", đó là những chữ cô dùng trong thư. tình ái rất đẹp, nhưng vì thầy mẹ của cô rất "nghiêm" theo lễ giáo, nên dù vị hôn phu của cô là một người chỉ mới biết sơ thôi nhưng cô vẫn có "bổn phận phải giữ tròn chữ hiếu", cô than thở đời cô khổ nên tình duyên ngang trái, cô khóc suốt đêm, v.v... Cuối thư ký tắt Kh.
Tuy Khánh không viết gì về vị hôn phu và ngày cưới, nhưng sau dọ hỏi, Tuấn Trình được biết chồng Khánh là một nhà buôn no đủ ở phố Hàng Ngang, 39 tuổi, đẹp trai, góa vợ và không có con. (Trong câu thơ bên cạnh chồng nghiêm luống tuổi rồi là chỉ sự cách biệt tương đối giữa tuổi 39 của người chồng và tuổi vị thành niên của Khánh). Tiệc cưới rất linh đình, rước dâu bằng 10 chiếc Citroën mới. Cô dâu đeo nữ trang rực rỡ, mặc chiếc áo màu đỏ tươi, lộng lẫy ngồi cạnh người chồng mặc áo gấm xanh.
Đêm trước hôm cô Khánh lên xe hoa, Thâm Tâm tổ chức tại tòa báo Bắc Hà một tiệc thịt chó, uống Mai quế lộ, mời Trần Huyền Trân, Nguyễn Bính và Vũ Trọng Can tham dự. Họ say sưa ngâm thơ, làm thơ, cười đùa cho đến khuya rồi lăn ra ngủ trên đất.
Trái với mọi dự đoán, Khánh rất hạnh phúc với chồng. Người đau khổ là Tuấn Trình Thâm Tâm. Vừa nhớ thương đơn phận, vừa bị mặc cảm của người nghệ sĩ nghèo bị người yêu bỏ rơi, lại còn bị mấy thằng bạn chế nhạo, đùa bỡn, nhất là Vũ Trọng Can.
Vì một chút tự ái văn nghệ, Tuấn Trình đã thức suốt đêm, theo lời anh thuật lại, để làm bài thơ Hai sắc hoa ty gôn, ký tên TTKh, với thâm ý cho Trần Huyền Trân và Vũ Trọng Can tin là của Khánh làm ra để thương tiếc mối tình tan vỡ. Muốn giữ tính cách bí mật, Tuấn Trình nhờ cô em họ chép lại bài thơ trên, dán kín bao thơ và nhờ cô này mang thư đến tòa báo.
Tất nhiên là giọng thơ lãng mạn của Tuấn Trình hoàn toàn khác với lời tâm sự trong bức thư cuối cùng của Khánh báo tin sắp lấy chồng. Cô Khánh không biết làm thơ. Và theo lời Tuấn Trình, cô ghét những bài thơ của Thâm Tâm. Sau khi nhận được bức thư cuối cùng của Khánh, trong thư Khánh tỏ ý không bằng lòng Tuấn Trình đã mượn tên cô để làm thơ kể chuyện tình duyên cũ trên báo, có thể làm hại đến cuộc đời của cô. Trong lá thư phản đối đó, Khánh xưng tôi chứ không xưng em nữa.
Thâm Tâm lấy lại những lời, những chữ trách móc giận dữ của Khánh trong thư để làm Bài thơ cuối cùng ký tên TTKh, với những câu :
Trách ai mang cánh “ti gôn” ấy
Mà viết tình em được ích gì ?
Bài thơ đan áo nay rao bán
Cho khắp người đời thóc mách xem.
Là giết đời nhau đấy biết không ?
Dưới giàn hoa máu tiếng mưa rung
Giận anh em viết dòng dư lệ
Là chút dư hương điệu cuối cùng.
Từ nay anh hãy bán thơ anh
Còn để yên tôi với một mình
Rồi để đáp lại Bài thơ cuối cùng, Thâm Tâm làm bài Dang dở tặng TTKh, cũng là bài thơ kết thúc niềm đau của mối tình dang dở :
Nhưng anh biết cái gì xưa đã chết,
Anh càng buồn càng muốn kết thành thơ,
Mộng đang xanh, mộng hóa bơ phờ,
Đây bài thơ chót kính dâng tặng bạn.
Huyền thoại Hai sắc hoa ti gôn, sở dĩ được những tên tuổi nổi tiếng của thi ca đương thời phụ hoạ và đứng vững lâu dài trong lòng người đọc, bởi nó chở những đớn đau chân thực của một người tình, dù viết dưới bàn tay trá hình Thâm Tâm. Và cũng nhờ tài năng của Thâm Tâm mà chúng ta có được hai hình tượng mới: người ấy và hoa ty gôn. Tính mơ hồ bóng gió của người ấy và cái chết thảm khốc của Antigone ẩn trong một chùm hoa nhỏ, xinh như mộng, càng làm tăng thêm chất bi đát thầm lặng của tình ái, liệm thêm sự bí mật của những chữ TTKH.
http://my.opera.com/hoadongphuong/blog/show.dml/2904372
Văn hóa- Huyền thoại về nàng thơ T.T.KH
Vào những ngày đầu của cuộc chiến chống thực dân Pháp năm 1947, tình cờ tôi được điều về đơn vị có nhà thơ Thâm Tâm hiện diện.
Gốc miền Trung, từng làm nghề dạy học, không màng tới chính trị, thế mà khi ra Hà Nội làm việc, cũng lại do ở sự tình cờ, tôi đã quay cuồng trong guồng máy đặc sệt chính trị lúc nào không hề hay, biết.
Trước ngày 19 tháng 12 năm ấy, ngay khi quân đội Pháp gây hấn, nổ súng ở phố Hàng Bún, cơ quan của chúng tôi được lệnh phải dời ngay vào Hà Đông. Và rồi mấy ngày sau, mấy ngày sau nữa… không biết cơ man nào là người, tay xách nách mang, gồng gánh đổ về mạn chùa Trầm…và lên Sơn Tây…miễn sao chạy cho xa, thật xa nơi lửa đạn thù ập tới.
Xa miền Trung nơi quê hương, tôi đã buồn. Lần này xa thủ đô Hà Nội để “chạy giặc”, tôi càng buồn - lo ghê gớm.
Vốn có văn hoá Pháp, lại được theo học mấy khóa chính trị căn bản, tôi được kết nạp vào Đảng. Trong kháng chiến, tôi được bổ xung làm chính trị viên cho một đơn vị chiến đấu. Do đấy tôi đã ở chung với Thâm Tâm trong một thời gian và gạn hỏi chính Thâm Tâm về huyền thoại nàng T.T.Kh. với bài thơ Hai Sắc hoa Ty-gôn kia …
…. Bữa ấy, ở xa trận địa, nằm bên nhau trong lán giữa núi rừng, Thâm Tâm đã tâm sự hết sự thực cho tôi nghe. Và dưới đây là lời Thâm Tâm kể:
- Anh là nhà giáo, ưa bộ môn Văn Nghệ, lại muốn khảo cứu về sử thi với huyền thoại nàng T.T.Kh. Được lắm. Và cũng là một cơ hội thuận tiện để tôi rốc cạn nỗi niềm bấy lâu chất chứa trong lòng. Này nhé, khi còn theo học, tôi có quen một cô gái. Rồi yêu nàng. Say mê nữa. Đúng khi mối tình nở hoa hương ngào ngạt, nàng biến mất. Lấy chồng? Có lẽ thế. Tôi hoàn toàn thất vọng, tìm kiếm nàng giữa Hà-Nội băm sáu phố phường. Nhà văn Thanh Châu, có lẽ rõ tâm sự của tôi, đã viết và đăng truyện ngắn Hoa Ty-Gôn, hàm ý yên ủi và tỏ lộ cho biết ở đời chẳng có gì là bền vững cả. Truyện ấy còn đượm một chân lý, một triết lý sống. Rất thanh cao, đạo đức. Rất mới. Vẫn bảo tồn đúng văn hóa cổ truyền Việt-Nam. Dung hòa giữa cái cũ và cái mới đang lên của thời đại, khác hẳn với lập trường của nhóm Tự Lực Văn Đoàn lúc bấy giờ.
Nhờ ở bài viết của Thanh Châu, và cũng do những gợi ý của ông Vũ Đình Long, tôi đã nẩy ra ý tưởng ngộ nghĩnh là viết một loạt bài về những vấn đề “đang ăn khách” hiện nay: cảnh ép duyên con cái với những nét chấm phá bi thương giữa hạng giầu kẻ nghèo trong xã hội; tục tảo hôn nơi xóm làng: gái 15 phải lấy ông già 60 hoặc cô gái 17 phải lấy một cậu bé 4, 5 tuổi con nhà giầu… Cái éo le, mất hạnh phúc sau đó, chằng chéo nhau làm cho con người phát sinh rất nhiều hệ lụy chua xót.
… Người tôi yêu tên là Kh. Khi viết, tôi định ký rõ ở dưới bài là Thanh Tâm, giản dị vậy thôi, như những bài tôi vẫn thường ký khi đăng báo. Tuy nhiên, cảm về chuyện Hoa Ty-Gôn, một tối, tôi lại làm bài Hai sắc hoa Ty-gôn cực tả mối tình của ai kia, và… liều chọn một bí danh ký dưới bài thơ bằng ba chữ viết tắt T.T.Kh.
Ba chữ viết tắt ấy chỉ có nàng và tôi hiểu. Còn gợi lên được những ý nghĩa khác giữa tên của cả hai đứa. Và bài thơ được đăng báo. Được phổ biến. Được truyền tụng khắp nơi. Độc giả xôn xao. Trong làng văn, làng báo Bắc Hà xôn xao không ngớt. Ai cũng tưởng cũng nghĩ chính mình là… người tình của nàng thơ T.T.Kh., riêng chỉ có tôi là cười thầm. Nàng, chắc cũng vậy.
Nhà văn Thanh Châu thực sự không rõ cái bí ẩn do chính tôi đạo diễn. Thiếu phụ đem bài thơ lại toà soạn chỉ là một cô gái tôi nhờ. Còn ông Vũ Đình Long thì chỉ biết vui vì lượng báo bỗng tăng vọt do bài thơ Hai sắc hoa Ti-gôn đem lại…
… Anh muốn rõ tâm trạng T.T.Kh lúc bấy giờ? thực sự, với thời gian, người ta dễ quên đi những cuộc tình bồng bột lúc ban sơ nếu người ta có được niềm hạnh phúc tương đối về cả vật chất lẫn tinh thần. T.T.Kh. cũng ở trong trường hợp ấy. Nàng yêu thơ, thích thơ nhưng đâu có biết làm thơ. Nàng không dám nhận, không dám ra mặt là lý do ấy.
Thấy T.T.Kh. là đề tài bán được báo, nhiều nhà thơ cũng nhẩy vào vòng chiến. Có người mạo cả tên tôi để ký dưới bài thơ. J. Leiba và Nguyễn Bính thì đàng hoàng thấy rõ. Các anh ấy chỉ cảm xúc xót thương thôi chứ không hề có ác ý hoặc bôi chưng. Bài thơ Dòng dư lệ của Nguyễn Bính là một thí dụ. Bài này mới đầu nhan đề là Cô gái vườn Thanh. Khi in trong tập Lỡ bước sang ngang mới đổi lại đề.
Suốt từ 1937 đến 1939, chỉ có ba bài thơ chính thức của T.T.Kh. do chính tôi sáng tác mà thôi.
1.Hai sắc hoa Ty-gôn.
2.Bài thơ thứ nhất.
3.Bài thơ cuối cùng.
Ngoài ra những bài như “Đan áo cho chồng” ký T.T.Kh., bài “Các anh hãy uống cho say” ký Thâm Tâm… đều do các bạn tôi tự biên tự soạn ra cả. Nếu kể hết thì nhiều lắm.Anh biết đấy, ở thời gian ấy anh đâu có mặt ở Hà-Nội, anh biết đấy, căn gác nhỏ ở ngõ Sầm Công - Quảng Lạc vốn là nơi quy tụ giới văn nghệ sĩ ở Thủ đô phục vụ nàng tiên nâu. Thôi thì đủ mọi đề tài anh em đem ra thi đua thảo luận. Nguyễn Bính, Vũ Trọng Can, Trần Huyền Trân, Tân Hiến, Lê Văn Trương, Đặng Đình Hồng…rồi sau có thêm Vũ Hoàng Chương, Đinh Hùng…và những bạn khác nữa như Vũ Bằng, Vũ Trọng Phụng v.v…
Đề tài thảo luận gồm đủ mặt, để làm thơ, viết truyện ngắn, truyện dài, truyện phiếm mỗi ngày hay mỗi tuần và linh tinh các vấn đề của xã hội.
Vướng mắc vào nghiệp dĩ, đa số người sáng tác theo cách ăn xổi, đáp ứng nhu cầu cho xong phần việc nên tác phẩm cứ èo uột không khá được.
Trở lại với T.T.Kh: những bài thơ mà các bạn của tôi làm, duyệt xét lại một lượt, tôi đã phải lắc đầu. Nó có nhiều mâu thuẫn. Không đúng, không đồng nhất mạch lạc như ba bài thơ chính. Và nếu có ai đó, sau này khi biên khảo về thi ca, căn cứ vào mỗi lời thơ, mỗi câu thơ, họ sẽ không khỏi có những ngộ nhận đáng tiếc. Tỷ như bài “Các anh hãy uống cho say”, đọc, họ sẽ cho là tôi bê tha, trụy lạc, nghiện thuốc phiện, nghiện rượu và vô tư cách với những câu thơ:
...“Miệng chồng, Khánh gắn trên môi” …
hoặc:
“K. ơi! người yêu của tôi ơi!”
Nghe mà vừa tức vừa giận. Nhưng biết làm thế nào được? Chính mấy câu:
“Từ nay anh hãy bán thơ anh
Còn để riêng tôi với một mình
Những cánh hoa lòng … hừ đã ghét
Thì đem mà đổi lấy hư vinh…”
Cái chữ “hừ” trong thơ, đọc lại, nhiều lần tôi thấy dễ ghét. Phụ nữ thật không dùng cái từ ấy, nếu ta chịu phân tách kỹ bản tánh nữ giới! Và dạo ấy, tôi vẫn còn lo…nhỡ bị phát giác…
… Anh biết đấy, tôi đâu có hút sách, nghiện ngập. Chẳng qua đến đó là chỉ để vui với anh em theo một thói quen. Tôi chẳng nghiện gì cả. Và yêu một cô bé, phải bé Kh., tôi đã… nói thế nào cho đúng nhỉ, tôi đã sùng kính, nâng lên cao, cao hơn nữa, như mối tình thần thánh. Rất thiêng liêng và trong sạch. Cho tới ngày nàng lấy chồng.
Ông chồng của Kh. Là một trung niên, khoảng 38, 39 tuổi, đâu có già, có luống tuổi và đâu có quyền quý cao sang gì. Vì ông ta chỉ giản dị là một thương gia tạm gọi là có của ăn của để, một tiểu tư sản thành thị sống quẩn quanh trong năm cửa ô Hà Nội mà thôi. Tuy nhiên tôi cũng mừng cho cô bé. Ít gì Kh. cũng có nơi chốn nương tựa, bảo đảm cho đời sống…
… Thoắt cái đã mười năm trôi qua. Chẳng hiểu bây giờ gia đình cô bé phiêu bạt nơi nào, trong chiến tranh thảm khốc này?
… À anh muốn hiểu rõ những day dứt, băn khoăn của tác giả mấy bài thơ, ba bài, sau khi đã gây xôn xao trong quần chúng?
Thú thực chính cá nhân tôi rất xấu hổ. Vô tình tôi đã tạo nên “sì-căng-đan” ấy. Trong tình ái, người ta thường “trẻ con” thế đấy. Sau khi đóng trọn vở tuồng “một mình mình biết, một mình mình hay”, tôi ngỡ ngàng “khi soi gương ngắm lại mình”. Tôi nhận ra chính tôi đã lừa dối mình, phỉnh gạt độc giả quần chúng.
Tôi rất hối hận, nhưng sự thể đã rồi. Không thể cứu gỡ được nữa. Đành để cho trôi xuôi. Với thời gian, nó đã trở thành huyền thoại. Sự thực “huyền thoại nàng thơ T.T.Kh. là thế!”
Đêm nay, trong lán giữa núi rừng này, anh em đều đã ngủ cả. Chỉ có anh và tôi ôn lại chuyện cũ, cùng tâm sự. Anh hãy hứa với tôi một điều… chỉ một điều thôi, “là anh không nên hở ra cho bất cứ ai hay biết, ngoại trừ sau khi tôi không còn nữa ở cõi đời này”.
Tôi đã cân nhắc kỹ. Huyền thoại vốn đã đẹp, rất đẹp. Mấy bài thơ “Hai sắc hoa Ti-gôn, Bài thơ thứ nhất và bài thơ cuối cùng với huyền thoại T.T.Kh. đã được liệt kê trong văn học sử cận đại, vậy người ta không nên bôi chưng nó. Méo mó nghề nghiệp vẫn là sở trường của một thiểu số người. Cần lắm, nói cách khác, chỉ khi nào thấy rất cần phải lên tiếng, anh hãy nói hãy viết ra. Còn không thì chỉ nên im lặng dùm tôi, như các bạn khác bấy lâu vẫn hằng im lặng vậy.
Nghe Thâm Tâm kể nỗi niềm mà mủi lòng. Tôi vội nắm chặt lấy tay anh, long trọng:- Tôi xin hứa sẽ làm đúng như lời Thâm Tâm dặn. Mong anh yên tâm.
Người thơ cười buồn:
- Thoắt đã mười năm trời. Tâm sự kia, nỗi niềm ấy đã trở nên huyền thoại sử thi. Và “sự thật huyền thoại Thơ T.T.Kh.” chỉ có hai người được rõ: Nàng và tôi. Nàng thì chưa bao giờ làm thơ, biết sáng tác thi ca. Nàng lẩn tránh tôi vì nghe theo lời bà mẹ. Sau khi thi đậu bằng “Sơ học yếu lược”, nàng còn theo Primaire Sup. tại trường Sinh-Từ. Tôi đã đến trường xưa tôi theo học mong được gặp lại nàng, nhưng lần nào cũng chỉ gặp ông thày dạy học cũ: Thầy Vũ Văn Nhượng! Gặp lại tôi, Thầy hỏi: “Anh Trình khỏe không, dạo này còn theo học hay đã đi làm?” Tôi ấp úng nói “Con đến nhìn lại trường cũ và thăm Thầy, tìm bạn… xem có còn bạn cũ nào không?” Thầy Nhượng vốn nhân hậu, vỗ vai tôi, không chút nghi ngờ; “Tốt, thế là tốt lắm. Con người, cần phải có tình có nghĩa. Anh theo tôi vào đây!”
Hôm ấy mắt tôi như hoa lên, mặt nóng bừng. Thầy đưa tôi vào văn phòng Hiệu trưởng…Sau đấy, chẳng bao giờ tôi đến trường tìm gặp lại T.T.Kh. nữa.Yêu một cô bé, đau khổ vì tình là chuyện không nên. Do đấy… cái lãng mạn, cái tưởng tượng của người nghệ sĩ đều dồn vào thơ, văn. Và tôi đã, trẻ con thế, đã làm nổi một vở kịch… Khiến trở thành huyền thoại lúc nào với ba bài thơ đã kể./.
Xem thêm: Thịt đỏ và nguy cơ tử vong
- Blogger Comment
- Facebook Comment
Đăng ký:
Đăng Nhận xét
(
Atom
)
0 nhận xét:
Đăng nhận xét