Hôm nay là một ngày lịch sử. Lịch sử của 34 năm về trước. Bây giờ nhìn lại 34 năm về trước và những năm sau ngày đất nước thống nhất, có biết bao lăm chuyện khôi hài, bi hài, về những người mới vào tiếp quản miền Nam. Tôi còn nhớ một ông chính trị viên tên là VĐH (người Thanh) nói xùi bọt mép cho đám trẻ tôi nhận thức rằng Mĩ nó tàn ác và xấu lắm, để so sánh với sự ưu việt của “chế độ ta”. Ông nói bọn Mĩ nó có nhiều báo chí, đài truyền hình, biết để làm gì không? Chúng nó muốn làm cho các bạn mù toáng lên, lẫn lộn, không biết đâu là thật và đâu là giả. Chúng nó thâm lắm. Tụi tôi ngồi phía dưới ôm bụng cười gần chết. Đến giờ giải lao, ra uống cà phê, có thằng còn giả giọng Thanh Hóa lên lớp bọn tôi. Vui ơi là vui. Tôi nghĩ có lẽ lúc đó các vị ngoài ấy mới vào, thấy choáng ngộp với miền Nam, nên muốn thị uy bằng cách đánh phủ đầu. Bây giờ thì tôi hiểu đó là một hội chứng tâm lí mặc cảm tự ti, một hội chứng inferiority complex.
Hôm nọ, đọc trên Tiền Phong, thấy bài “Vào Sài Gòn, lính trẻ ngày ấy …” của Ngô Minh. Trong đó anh mô tả một cách thành thật những khờ khạo của bộ đội thời đó. Xin trích một đoạn:
“Là một cử nhân tốt nghiệp Trường Đại học Thương nghiệp Hà Nội hẳn hoi, mà sáng 30/4, tôi mới lần đầu tiên biết thế nào là quảng cáo! Dọc đường từ Xuân Lộc vào Biên Hòa, trên xa lộ Sài Gòn có trưng rất nhiều tấm biển to tướng với đủ màu sắc lòe lọet. Lớn nhất và gây ấn tượng là tấm biển vẽ một gương mặt người da đen đang cười, khoe hàm răng trắng tinh, đều răm rắp với chữ Hynos to tổ bố.
Tấm biển rộng hàng chục mét vuông, được dựng bằng khung sắt bê tông cao lớn giữa cánh đồng, đi xa hàng chục cây số vẫn thấy! Tôi hỏi một chị du kích dẫn đường ở Biên Hòa là họ vẽ cái gì thế. Chị nhìn tôi như thể từ mặt trăng rơi xuống, rồi cười toáng lên: “Đó là quảng cáo hàng hóa. Họ quảng cáo loại thuốc đánh răng tên là Hynos! Cả miền Nam này dùng loại thuốc đánh răng này đấy!”. Về quảng cáo, tôi chưa bao giờ được học ở trường đại học ở Hà Nội!
Bộ đội giải phóng đa phần là thanh niên học cấp 2 cấp 3 làng quê miền Bắc, lớn lên ở nông thôn, vào chiến trường lại ở rừng núi , nên vào Sài Gòn rất bỡ ngỡ. Anh Diên người Tày, quê Lạng Sơn là anh nuôi đơn vị tôi. Ngay buổi sáng 1/5/1975 đi chợ mua chục con cá lóc. Anh về đếm mãi vẫn cứ 12 con, bèn lật đật ra chợ tìm cho được bà bán cá trả lại hai con vì “tội người ta”, “buôn bán kiểu này thì lời cái gì”.
Khi anh tìm được bà bán cá, bà cười toáng lên: “Chú giải phóng ơi, “một chục” ở đây là 12 chứ không phải mười nghen!”. Anh về kho nấu bữa tối, còn hai con cá để lại ngày mai, anh cho vào chỗ bệ cầu vì thấy ở đó có nước! Sáng mai anh đi bắt cá để nấu cháo thì cá không còn nữa. Anh đi báo cáo thủ trưởng, tưởng có người làm mồi nhậu ban đêm. Đến nơi ai cũng ôm bụng cười vì cá thì mất, mà cầu thì tắc, phải nhờ ông thợ hàng xóm sang thông hộ.”
Còn nhiều chuyện như thế này lắm. Còn có chuyện bộ đội thấy tiệm đề “sửa xe honda”, bèn vào lấy ghế ra ngồi và gọi hai li sữa honda! Nghe cứ như là chuyện nói xấu, xuyên tạc, nhưng hoàn toàn thật, vì nó được chính bộ đội viết trên sách.
Hôm nay đọc bài thơ này của Đỗ Trung Quân làm tôi nhớ chuyện xưa. Những gì ĐTQ viết đều chính xác vào thời đó. Tôi có thể làm chứng. Ngay cả bài báo của chưng NKViện tôi cũng có đọc. Ôi, một thời mông muội đã qua …
NVT
http://blog.360.yahoo.com/blog-Hg0onXE8eq893iD0JArCi88FNBLxbcqwuw--?cq=1
Một bài thơ chưa từng công bố
Đã 34 năm trôi qua. Hòa bình cũng dài ngang bằng cuộc chiến tranh khốc liệt nhất trong lịch sử. Chưa có cuộc chiến nào ám ảnh một dân tộc cho bằng cuộc chiến tranh này, nó thay đổi hình thái xã hội, thay đổi số phận con người. Công bố bài thơ viết năm 27 tuổi, bảy năm sau hòa bình(1982). Nay nhìn lại ,tôi cũng không hiểu điều gì đã dẫn dắt cho những dòng chữ này. Khi làm xong nghĩa vụ một thanh niên thời hậu chiến, người có lý lịch may mắn không vướng phải chuyện lính tráng dù thế hệ tôi sau “mùa hè đỏ lửa 1972” hầu hết cũng đã “yên vị” khói hương trên bàn thờ gia đình.
Còn nhớ những năm của thập niên 80, giáo sư Nguyễn Khắc Viện viết một bài đanh thép trên báo Sài Gòn Giải Phóng “sen hay bùn” về danh xưng khi nào thì gọi là thành phố Hồ Chí Minh, khi nào thì gọi là Sài Gòn, và ông khẳng định cái tốt thì gọi tp HCM, cái tệ nạn, cái xấu, cái "tồn đọng" thì gọi là Sài Gòn. Giáo sư Nguyễn Ngọc Lan đã đối thoại bằng một bài báo khác (tất nhiên ông không thể đăng bài phản biện ấy trên báo SGGP như trong một xã hội thông thường), ông nhắc rằng hiện tại sau 10 năm giải phóng, thành phố vẫn còn một tờ báo lớn tiếng nói chính thức của “Đảng bộ và nhân dân thành phố” tờ Sài Gòn Giải Phóng (nó vẫn còn đến tận hôm nay), còn một nhà máy thuốc lá Sài Gòn, còn một đội bóng danh tiếng mang tên Cảng Sài Gòn (nay đã không còn)…
Bài thơ này, có lẽ là cái nhìn đau đớn đầu tiên của một người trẻ tuổi vừa từ chiến trường K trở về với bao lăm hoài bão sau khi chứng kiến những hy sinh cao đẹp của một thế hệ thanh niên Sài Gòn,những con người thành phố tuổi chỉ mới đôi mươi …
Hai mươi bảy tuổi và một bài thơ dài nhất của đời mình...
Đỗ Trung Quân
TẠ LỖI TRƯỜNG SƠN(1982)
1.
Một ngàn chín trăm bảy mươi lăm
Các anh từ Bắc vào Nam
Cuộc trường chinh 30 năm dằng dặc
Các anh đến
Và nhìn Sai Gon như thủ đô của rác
Của xì ke, gái điếm, cao bồi
Của tình dục,ăn chơi
“Hiện sinh-buồn nôn-phi lý!!!”
Các anh bảo con trai Sai Gòn không lưu manh cũng lính ngụy
Con gái Sai Gòn không tiểu thư khuê các, cũng đĩ điếm giang hồ
các anh bảo Sai Gòn là trang sách “hư vô”
văn hóa lai căng không cội nguồn dân tộc
ngòi bút các anh thay súng
bắn điên cuồng vào tủ lạnh, ti vi
vào những đồ tiêu dùng mang nhãn Hoa Kỳ
các anh hằn học với mọi tiện nghi tư bản
các anh bảo tuổi trẻ Sài Gòn là “thú hoang” nổi loạn
là thiêu thân ủy mị, yếu hèn
các anh hùa nhau lập tòa án bằng văn chương
mang tuổi trẻ Sai Gòn ra trước vành móng ngựa!!!
2.
Tội nghiệp Sài Gòn quá thể
Tội nghiệp chiếc cầu Công Lý
Có anh thợ điện ra đi không về
Tội nghiệp những “bà mẹ Bàn Cờ” của những ngày chống Mỹ
Lửa khói vỉa hè nám cả những hàng me
Tội nghiệp những người sài gòn đi xa
Đi từ tuổi hai mươi
Nhận hoang đảo tù đày để nói về lòng ái quốc
Có ai hỏi những hàng dương xanh
Xem đã bao lăm người Sài Gòn hóa thân vào sóng nước
Tội nghiệp nhưng đêm Sài Gòn đốt đuốc
Những “người cha bến tàu” xuống đường với bao tử trống không
Tội nghiệp nhưng ông cha rời khỏi nhà dòng
Áo chùng đen đẫm máu
Tội nghiệp những chiến trường văn chương, thi ca, sách báo
những vị giáo sư trên bục giảng đường
ưu tư nhìn học trò mình nhiễm độc
Sài Gòn của tôi-của chúng ta.
có tiếng cười
và tiếng khóc
3.
Bảy năm qua đi với nhiều buồn vui đau xót
Một góc phù hoa ngày cũ qua rồi
Những con điếm xưa có kẻ đã trở lại làm người giã từ ghế đá công viên để sống đời lương thiện
Những gã du đãng giang hồ cũng khoác áo thanh niên xung phong lên rừng xuống biển
Tìm lại hồn nhiên cho cuộc sống của mình
Cuộc đổi thay nào cũng nhiều mất mát .hy sinh…
4.
Và khi ấy
Thì chính “các anh”
Những người nhân danh Hà Nội
Các anh đang ngồi giữa Sài Gòn bắt đầu chửi bới
Chửi đã đời .
Chửi hả hê
Chửi vào tên những làng quê ghi trong lý lịch của chính mình
Các anh những người nhân danh Hà Nội sợ đến tái xanh
Khi có ai nói bây giờ về lại Bắc!!!
Tội nghiệp những bà mẹ già miền Bắc
Những bà mẹ mấy mươi năm còng lưng trên đê chống lụt
Những bà mẹ làm ra hạt lúa
Những năm thất mùa phải chống gậy ăn xin
Những bà mẹ tự nhận phần mình tối tăm
để những đứa con lớn lên có cái nhìn và trái tim trong sạch
Bây giờ
Những đứa con đang tự nhận mình “trong sạch”
Đang nói về quê mẹ của mình như kẻ ngoại nhân
Các anh
đang ngồi giữa Sài Gòn nhịp chân
đã bờm xờm râu tóc,cũng quần jean xắn gấu
Cũng phanh ngực áo,cũng xỏ dép sa bô
Các anh cũng chạy bấn người đi lùng kiếm tủ lạnh ti vi, casette, radio…
Bia ôm và gái
Các anh ngông nghênh tuyên ngôn”khôn & dại”
Các anh bắt đầu triết lý “sống ở đời”
Các anh cũng chạy đứt hơi
Rượt bắt và trùm kín đầu những rác rưởi Sài Gòn thời quá khứ
Sài Gòn 1982 lẽ nào…
Lại bắt đầu ghẻ lở?
5.
Tội nghiệp em
Tội nghiệp anh
Tội nghiệp chúng ta những người thành phố
Những ai ngổn ngang quá khứ của mình
Những ai đang cố tẩy rửa “lý lịch đen”
Để tìm chỗ định cư tâm hồn bằng mồ hôi chân thật
6.
Xin ngả nón chào các ngài
“Quan toà trong sạch”
Xin các ngài cứ bình thản ăn chơi
Bình thản đổi thay lốt cũ
Hãy để yên cho hàng me Sài Gòn
Hồn nhiên xanh muôn thưở
để yên cho xương rồng,gai góc
Chân thật nở hoa
Này đây!
Xin đổi chỗ không kỳ kèo cho các ngài cái quá khứ ngày xưa
Nơi một góc (chỉ một góc thôi)
Sài Gòn bầy hầy ,ghẻ lở
Bây giờ…
Tin chắc rằng trong các ngài đã vô số kẻ tin vào” thượng đế”
Khi sống hả hê giữa một thiên đường
Ai bây giờ
Sẽ
Tạ lỗi
Với Trường Sơn?
Đỗ trung quân (1982)
(*) năm 1995-nhà xuất bản Trình Bày có ý định in bài thơ này với cái tên tác giả "Chung Do Kwan" trong phần" thơ dịch". Bài thơ vẫn còn là "ý định" bởi sự cân nhắc cũng là nhã ý của nhà Trình Bày khi biết tác giả thật sự vẫn còn đang sống ở VN.
Xen thêm: Đánh thức tâm huyết nghiên cứu khoa học như thế nào?
- Blogger Comment
- Facebook Comment
Đăng ký:
Đăng Nhận xét
(
Atom
)
0 nhận xét:
Đăng nhận xét